Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2011

BÌNH ĐỊNH TIỀM NĂNG DU LỊCH ...

Vài nét về quê hương Bình Định




Du lịch Bình Định


Bình Định là quê hương của các loại hình nghệ thuật như tuồng, bài chòi... với bờ biển dài, nhiều vũng vịnh với những bãi tắm đẹp và danh lam thắng cảnh như: Quy Nhơn, Tam Quan, Tân Thanh, Vĩnh Hội, Trung Lương, Hải Giang, Đảo Yến, bãi tắm Hoàng Hậu, Quy Hòa, Bãi Dại, ...

Cơ sở lưu trú ở Bình Định khá tốt, hiện nay toàn tỉnh có 74 khách sạn (4 khách sạn 4 sao, 2 khách sạn 3 sao), tổng số trên 1.900 phòng, trong đó hơn 1000 phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Một số resort, khách sạn tiêu chuẩn 4-5 sao đang được quy hoạch xây dựng.

Các lễ hội truyền thống: lễ hội chợ Gò, lễ hội làng rèn Phương Danh, lễ hội làng đúc đồng Bằng Châu, lễ hội đô thị Nước Mặn, lễ hội cư dân miền biển, lễ hội đâm trâu, lễ hội đổ giàn, ...

Làng nghề: Rượu Bàu Đá, Mộc mỹ nghệ, gốm, nón ngựa, làng rèn Phương Danh, Bún Song Thằn, Bánh tráng nước dừa, bánh tráng mè, ...

Danh thắng cảnh






Gành Ráng Tiên Sa

Gành Ráng Tiên Sa tên chữ là Nhạn Châu, là quần thể du lịch ở Đông Nam thành phố Qui Nhơn, cách thành phố khoảng 3 km. Ráng hiểu theo nghĩa của người dân đi biển là "đổ gió" từ trong buồm ra, xoay mũi theo. Thuyền qua gành này thường phải đổ gió nên người đi biển gọi là "Gành Ráng". Gành Ráng có diện tích rộng 35ha, là thắng cảnh đẹp với bãi cát trắng chạy dài hàng kilômét, nước biển trong xanh. Gành cao, sóng vỗ, phong cảnh thật kỳ vỹ, góp phần tạo nên cảnh quan hấp dẫn cho bãi biển Quy Nhơn. Nơi đây có bãi Đá Trứng, còn gọi là bãi tắm Hoàng Hậu bên cạnh đồi Thi Nhân với mộ Hàn Mặc Tử (1912-1940), có những hang động đa dạng, những tượng đá mặt người, đầu sư tử, đầu voi, hòn vọng phu, hòn chồng, hòn vợ... do thiên nhiên tạo dáng dọc gành đá bờ biển nơi đây. Gành Ráng Tiên Sa còn là khu an dưỡng, chữa bệnh lý tưởng. Từ Gành Ráng có thể nhìn bao quát bờ Đông của thành phố Qui Nhơn và bán đảo Phương Mai.

Bán đảo Phương Mai

Thuộc thành phố Qui Nhơn, cách thành phố 8km về phía Đông Bắc. Bán đảo Phương Mai rộng 300ha, có núi Phương Mai - nơi còn bảo tồn được hệ sinh thái tương đối phong phú với nhiều lọai động, thực vật quý và nhiều cảnh đẹp. Phía Tây bán đảo, cạnh núi Phương Mai là đầm Thị Nại. Đầm là môi trường nuôi trồng các lọai hải sản và cũng là điểm tham quan du lịch.







Bãi tắm Hoàng Hậu

Nằm trong khu Gành Ráng, bãi tắm Hoàng Hậu được xem là bãi tắm đẹp nhất Bình Định. Bãi tắm Hoàng Hậu là một bãi đá rộng hàng trăm mét vuông, gồm có những hòn đá xanh, nhẵn, trông giống như một bãi trứng khổng lồ. Phía trước bãi là những bức tường đá thiên nhiên đứng che chắn sóng gió tạo nên vùng nước phẳng lặng. Năm 1927, vua Bảo Đại đến đây du ngoạn và cho xây khu nhà nghỉ, và sân thể thao bên cạnh bãi tắm. Bãi tắm với những hòn trứng đá khổng lồ chỉ dành riêng cho Nam Phương Hoàng hậu tắm nên gọi là Bãi tắm Hoàng Hậu.

Suối khoáng nóng Hội Vân

Nằm ở địa phận thôn Hội Vân, xã Cát Hiệp, huyện Phù Cát, cách thành phố Qui Nhơn 48 km về phía Tây Bắc. Suối này được phát nguyên từ vùng núi thấp phía Bắc, đến thôn Hội Vân, nước chảy vào hồ nhỏ rộng khoảng 400m2, sâu hơn 1m. Từ đây mạch nước nóng phun lên, nhiệt độ khoảng 70-80oC, vô trùng, chứa khoảng 20 chất khoáng. Từ năm 1978 ở đây đã xây dựng nhà điều dưỡng để chữa bệnh ngoài da, tim mạch, tiêu hóa.
Tương truyền là suối nước mà thần tiên đã ban cho một công nương trong hoàng tộc Chămpa để chữa bệnh, vì vậy mà còn có tên gọi là suối Tiên.

Suối Tiên ở Quy Nhơn

Suối Tiên là một thắng cảnh đẹp của tỉnh Bình Định, ở đây còn lưu truyền về truyện cổ tích Suối Tiên.

Hầm Hô





 Đây là một trong các danh thắng cảnh nổi tiếng của đất võ Bình Định. Hầm hô là một dòng suối lớn (một nhánh của sông Côn) dài gần 3km, thuộc địa phận thôn Phú Mỹ, xã Tây Phú, huyện Tây Sơn, cách thành phố Qui Nhơn khoảng 55 km về hướng Tây Bắc.
Hầm Hô nổi tiếng là nhiều cá, nhất là về mùa lũ, cá từ khắp nơi kéo về từng bầy đặc cả nước. Cá lội ngược dòng bị thác nước hất tung trở lại trông như cá bay. Dân gian truyền rằng, hằng năm Long Vương tổ chức kỳ thi cho cá tại Hầm Hô, con nào vượt qua được sẽ hóa thành Rồng, do điển tích này mà thác Hầm Hô còn gọi là Vũ Môn, còn dân gian gọi là thác Cá Bay.
Với chiều rộng trên dưới 30m, lòng sông chi chít những trụ đá hoa cưong thiên hình vạn trạng muôn màu lóng lánh, rực rỡ như ngàn viên kim cương khoe mình trong làn nước trong xanh. Bắt nguồn từ rừng già, dọc theo dòng sông có nhiều vách đá dựng đứng như tường thành, rêu phủ xanh rì, rễ cây phủ kín cổ kính. Có nhiều bãi đá chồng chất lên nhau khiến dòng sông nơi đây bị hẹp lại. Có vũng cá Rói luôn chứa đầy cá rói dồn tụ về đây. Có những tảng đá to chắn giữa lòng sông làm cho nước bị chặn lại, bọt tung trắng xóa. Và còn nữa những khối đá như sống động, có hồn, bởi huyền tích do con người thêu dệt như Hòn Vò Rượu, hòn Dấu chân ông Khổng lồ, Bàn cờ tiên, Hòn Ông Táo, ... Càng đi sâu cảnh vật càng kỳ thú, hương rừng ngào ngạt, chim hót véo von... tạo nên một bức tranh thiên nhiên sinh động, kỳ ảo ...
Ở thế kỷ 18, Hầm hô còn là địa danh đóng quân & tập luyện của nghĩa quân Võ Văn Dũng (Tây Sơn). Cuối thế kỷ 19, Hầm Hô là căn cứ địa quan trọng của nghĩa quân Cần Vương Mai Xuân Thưởng

Núi Bà - Biểu tượng của niềm tin

Núi Bà là biểu tượng của quê hương, của niềm tin và lòng tự hào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Quần thể núi Bà có trên sáu mươi ngọn cao thấp, nằm trọn trên địa phận huyện Phù Cát, phía nam đầm Đạm Thủy, cách Quy Nhơn khoảng 30km về hướng Bắc. Xen giữa các khối núi nhấp nhô là những thung lũng cây cối xanh tốt và hàng ngàn con suối lớn nhỏ.
Núi Bà uy nghi, huyền diệu với bao điều kỳ bí mà mỗi nơi chốn, mỗi cái tên đều có một sự tích. Đặc biệt nhất là các sự tích về hòn Chuông (Chung Sơn) trông xa như quả chuông úp; hòn Vọng Phu ở thôn Chánh Oai, trên một ngọn núi cao, có hai khối đá, một cao một thấp trông tựa như hình dáng mẹ dắt con ngóng trông chồng từ biển xa; chùa Linh Phong (chùa Ông Núi) nổi tiếng linh thiêng.






Đảo yến Quy Nhơn

Hồ Núi Một

Là một hồ nước ngọt lớn, có diện tích mặt hồ hơn 1200 ha, ở xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn. Xung quanh hồ là suối, thác, hang động, rừng nguyên sinh, chính giữa là mặt hồ phẳng lặng, trong xanh, tạo nên một khung cảnh sơn thủy sông-núi-suối-hồ hũu tình, gần cuối hồ là làng đồng bào dân tộc Bana.

Động Cườm

Di tích động Cườm Tích phân bố trên một cồn cát rộng khoảng 6-7 ha, thuộc thôn Tăng Long 2, xã Tam Quan Nam, huyện Hoài Nhơn. Khai quật di tích Động Cườm đã phát hiện 46 mộ chum và 4 cụm mộ nối chôn úp nhau. Dáng chum hình trụ, đáy tròn lồi, xương gốm thô, có màu nâu đỏ, pha nhiều cát. Kỹ thuật tạo dáng chum bằng dải cuộn kếp hợp với bàn dập, gòn kê và ghép nối. Những đồ tùy táng chôn theo mộ chum là nồi nhỏ, bát bồng bằng gốm mang đặc trưng văn hóa Sa Huỳnh và chủ yếu đặt trên nắp chum. Ngòai ra,còn có một số hiện vật như dao, rìu, đục, kiếm ngắn và đồ trang sức là hạt cườm thủy tinh màu sắc rực rỡ. Đặc biệt có những hạt chuỗi bằng ngọc mã não màu đỏ ánh vàng. Dựa vào những di vật thu được, phần nào khẳng định chủ nhân của những mộ táng ở Động Cườm chính là những cư dân cổ văn hóa Sa Huỳnh. Khu mộ địa Động Cườm có khả năng tồn tại từ thế kỷ I, II trước CN đến thế kỷ I CN. Những hiện vật này đã được đưa về Bảo tàng tổng hợp Bình Định phục dựng.

Di tích lịch sử - văn hóa





Viện Bảo tàng Quang Trung

Bảo tàng Quang Trung cách Tp. Qui Nhơn 50km về phía Tây Bắc, thuộc làng Kiên Mỹ, xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn,. Bảo tàng được xây dựng năm 1978 theo lối kiến trúc cổ, dáng vẻ uy nghiêm. Bảo tàng có 9 phòng trưng bày với những di vật quan trọng liên quan đến phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. Nằm trong quần thể Bảo tàng Quang Trung là điện thờ Tây Sơn Tam Kiệt và các danh tướng thời Tây Sơn. Điện được xây dựng trên chính nền nhà cũ của ba anh em nhà Tây Sơn. Điện được nhân dân góp công xây dựng vào năm 1958 và hoàn thành vào năm 1960 với tổng thể diện tích 2.325m2. Tại khu di tích này còn có 2 di tích cực kỳ quý giá là cây me cổ thụ, giếng nước. Hai di tích này có từ thời thân sinh của anh em nhà Tây Sơn là ông Hồ Phi Phúc và bà Nguyễn Thị Đồng, đến nay đã hơn 300 năm, là những di sản vô giá gắn liền với thời thơ ấu của 3 anh em họ Nguyễn.

Thành Hoàng Đế

Thuộc xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, cách thành phố Quy Nhơn 27 km về hướng Tây Bắc. Trước kia là thành Đồ Bàn. Thành được xây dựng vào cuối thế kỷ 10, dưới triều đại vua Yangpuky Vijaya. Đây là kinh đô cuối cùng của vương quốc Chăm Pa. Các vua Chăm đã đóng ở đây từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15.

Đến 1775, nhà Tây Sơn xây dựng lại kiên cố, đặt tên là Thành Hoàng Đế từ năm 1778. Từ năm 1776 đến 1793 là đại bản doanh của quân Tây Sơn và sau đó là kinh đô của chính quyền Trung ương Hoàng đế Thái Đức - Nguyễn Nhạc. Thành Hoàng đế nguyên là một tổng thể kiến trúc hình chữ nhật gồm ba vòng thành: Thành Ngoại, Thành Nội và Tử Cấm Thành. Thành Ngoại có chu vi 7400m, Thành Nội còn được gọi là Hoàng Thành có hình chữ nhật dài 430m, rộng 370m. Bên trong Thành Nội có Tử Cấm Thành cũng hình chữ nhật dài 174m, rộng 126m.
Sau khi bị nhà Nguyễn thôn tính, thành đã bị tàn phá. Di tích hiện nay không còn nguyên vẹn, chỉ còn sót lại Cổng Tam Quan và các bức tường thành. Tường thành xây bằng đá ong, có hào, đường lát đá hoa cương. Trong thành có di tích cũ của người Chăm như giếng vuông, tượng nghê, voi đá. Bên cửa hậu có gò Thập Tháp, trên gò có 10 ngôi tháp Chàm, hiện nay không còn. Đặc biệt có ngôi tháp Cánh Tiên cao gần 20 m, góc tháp có tượng rắn làm bằng đá trắng, hai voi đá và nhiều tượng quái vật. Chùa Thập Tháp nằm ở phía Bắc Thành, chùa Nhạn Tháp nằm ở Nam thành là những ngôi chùa cổ, trong đó còn giữ được nhiều di tích, hiện vật liên quan đến văn hóa Chăm Pa và phong trào Tây Sơn. Thành đã được xếp hạng Di tích Lịch sử năm 1982.

Lăng Võ Tánh

Lăng Võ Tánh cách tháp Cánh Tiên 200 m cùng nằm trên con đường đất nhỏ trong thành Hoàng Đế. Năm 1799, nhà Nguyễn chiếm được thành Hoàng Đế của nhà Tây Sơn và giao cho Võ Tánh trấn giữ. Quân Tây Sơn dốc toàn lực phản công, bao vây thành trong thời gian dài. Hết lương ăn, Võ Tánh xin hàng để cứu binh sỹ. Sau đó ông tự thiêu ở lầu Bát Giác, phó tướng là Ngô Tùng Châu cũng uống thuốc độc tự tử. Trong thời gian cố thủ thành Hoàng Đế, ông đã cầm chân quân Tây Sơn, gián tiếp giúp cho nhà Nguyễn có cơ hội đánh chiếm kinh đô Huế dễ dàng, vua Tây Sơn phải chạy trốn.

Năm 1802 vua Gia Long cho dựng đền thờ ngay tại chỗ từng là lầu Bát Giác ba tầng, hình ngọn lửa. Trong lăng có ngôi mộ lớn, trên mộ vẽ một con dơi màu đỏ, sau mộ là bức bình phong trang trí chữ Thọ.

Từ đường dòng họ Bùi

Trong nhà thờ từ đường dòng họ Bùi ở huyện Tây Sơn có bàn thờ nữ tướng Bùi Thị Xuân. Đô đốc Bùi Thị Xuân người xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, là vợ Thiếu phó Trần Quang Diệu. Hai vợ chồng bà là dũng tướng trụ cột của phong trào Tây Sơn. Bà đã ra Bắc vào Nam, tung hoành cả biên giới phía Tây, lập nhiều chiến công vang dội, gây khiếp sợ cho cả quân vua Lê, chúa Trịnh và chúa Nguyễn. Khi Quang Trung lên ngôi 1788, bà được phong chức Đô đốc. Sau khi vua Quang Trung mất (1792), triều đình Tây Sơn suy yếu, quân Nguyễn Ánh chiếm Phú Xuân. Năm 1802, chồng bà là Trần Quang Diệu bị xử tử cùng vua Quang Toản. Bà cùng các con bị sa vào tay kẻ thù và bị xử voi giày.

Di tích kiến trúc tôn giáo







Chùa Thập Tháp (Thập Tháp Di Đà)

Chùa Thập Tháp do nhà sư Nguyên Thiều phái Lâm Tế (pháp danh Siêu Bạch) dựng vào năm 1665, thời chúa Nguyễn Thái Tông, chùa thuộc thôn Vạn Thuận, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, cách thành phố Quy Nhơn 27 km về hướng Tây Bắc. Chùa tọa lạc trong phạm vi thành Đồ Bàn, đế đô của vương quốc Chămpa cũ. Chùa được chúa Nguyễn Phúc Chu ban cho biển "Thập Tháp Di Đà Tự". Đến nay Chùa đã có lịch sử 340năm. Chùa có 4 khu chính bao gồm: Chánh điện, Phương trượng, Đông đường và Tây đường. Chính điện có Đại Hùng Bảo điện và 2 gian thờ phụ hai bên. Bên trong nội thất được trang trí, chạm trổ tinh vi với các họa tiết hoa sen, xấp sách, hoa cuộn trên gỗ quý, những đường nét rồng bay, phượng múa cách điệu rất trang nhã. Chùa xây bằng gạch nung đỏ lấy từ 10 ngọn tháp Chàm đổ nát ở đồi Long Bích nên mới gọi là chùa Thập Tháp. Chùa Thập Tháp là một trong những ngôi chùa lớn ở Bình Định được xếp hạng di tích Kiến trúc nghệ thuật văn hóa năm 1990.

Chùa Long Khánh

Nằm ở trung tâm thành phố Qui Nhơn, trên đường Trần Cao Vân.Chùa được xây dựng vào năm 1715,dưới thời vua Lê Dụ Tông, do tổ sư Đức Sơn - người Trung Quốc sáng lập. Lúc bấy giờ chủ yếu là phục vụ cho cộng đồng người Hoa ở quanh vùng. Tính đến nay, chùa Long Khánh đã qua 14 đời trụ trì. Chùa hiện còn lưu giữ một số bảo vật quý như: Chiếc khánh đồng dùng để khai hiệu lệnh, dài 75cm, cao 25,5cm được đúc vào thời điểm khánh thành chùa (1715); Thái Bình Hồng Chung (chuông Hồng Thái) được đúc vào năm 1805, triều vua Gia Long, và tấm dấu biểu trưng Long Khánh Tự được kiến tạo vào năm 1813 thời vua Gia Long.

Chùa Sơn Long

Chùa nằm trên địa phận xã Nhơn Bình, Tp. Qui Nhơn. Chùa do Thiền sư Bửu Quang khởi dựng vào cuối thế kỷ 17 có tên là Thiền Thất Giang Long ở huyện Tuy Viễn, phủ Tuy Ninh, trấn Bình Định. Chùa tọa lạc trên sườn núi Trường Úc. Đến năm 1744, chùa được Thiền sư Thanh Thiền cho di chuyển về địa điểm hiện nay sát chân núi, cách cầu Trường Úc 700m về hướng đông và đổi tên là chùa Sơn Long.
Tương truyền, dưới chân núi phía sau chùa, xưa kia có một tảng đá rất lớn trông như miệng rồng có hàm trên, hàm dưới với một cái lưỡi nhô ra nên gọi là đá Hàm Long. Nay do sự tàn phá của thời gia nên dấu ấn này không còn nữa. Trong chùa có 15 ngôi mộ tháp lớn nhỏ, có những ngôi mộ vẫn còn giữ nét rêu phong, cũ kỹ của mấy trăm năm về trước, có mộ tháp đã được trùng tu khang trang hơn. Đến Sơn Long, bạn còn được chiêm ngưỡng bức tượng Phật Lồi 7 đầu rồng bằng đá nặng 1,5 tấn, cao 3,1m với hoa văn chạm khắc sau lưng. Bức tượng này được xác định của người Chăm tạc từ thế kỷ thứ 8.

Chùa Linh Phong

Được xây dựng năm 1702 trên lưng chùng một ngọn đồi nằm phía nam Núi Bà, thuộc xã Cát Tiến, huyện Phù Cát, cách Tp, Qui Nhơn khoảng 30km về phía Bắc. Chùa có lưng dựa vào núi cao, mặt trông ra biển, xung quanh có sông uốn lượn, phong cảnh thanh tao kỳ vĩ, không gian tĩnh mịch, với tên ban đầu là Dũng Tuyền, đến năm 1733, chúa Nguyễn Phúc Chu xuống chiếu cho xây lại chùa và đổi tên là Linh Phong, ban cho sư trụ trì (ông Núi) pháp hiệu "Tĩnh Giác Thiện Trì Đại Lão Thiền Sư". Có truyền thuyết kể rằng vua Minh Mạng nằm mơ được Đại Lão thiền sư dâng thuốc chữa khỏi bệnh nên đã xuống chiếu cấp bạc để trùng tu lại chùa năm 1892. Hiện Chùa còn lưu giữ nhiều di sản văn hóa có giá trị.

Tu viện Nguyên Thiều

Chùa được xây dựng vào năm 1956 trên một quả đồi gần tháp Bánh Ít, thuộc xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước. Bên phải Phật đài có bức tượng Thích Ca màu trắng cao 15m, ngồi thiền trên đài sen được xây vào năm 1962. Hai bên thành bậc lên xuống Phật đài có chạm hình con rồng uốn lượn trông rất đẹp.

Nhà thờ Chánh Tòa - Nhà Thờ Lớn

Nằm trung tâm thành phố Qui Nhơn, trên đường Trần Hưng Đạo. Nhà thờ Chánh Tòa được xây dựng vào năm 1938 theo lối kiến trúc Pháp và Gô Tích châu Âu.

Di tích Chăm Pa

Tháp Dương Long - Tháp Ngà

Thuộc xã Tây Bình, huyện Tây Sơn, cách Quy Nhơn khoảng 50 km, tháp được xây dựng vào cuối thế kỷ 12. Tháp là một quần thể gồm 3 tháp. Tháp giữa cao 40m, hai tháp 2 bên cao 38m. Phần thân tháp được xây bằng gạch, các góc được ghép bằng những tảng đá lớn và trang trí điêu khắc đều bằng đá. Cửa tháp quay hướng Đông và được nâng lên khá cao khoảng 1,5m và khung cửa là những khối đá lớn. Những chi tiết được trang trí ở đây đều rất lớn, chạm trổ trên sa thạch với những đường nét rõ ràng và còn giữ được lâu. Với nghệ thuật điêu khắc chạm trổ tinh xảo, các đường nét vừa hoành tráng, lộng lẫy, vừa tinh tế mềm mại, các họa tiết trang trí sống động, tháp được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1980.

Tháp Bánh Ít - Tháp Bạc





 Nằm thuộc địa phận xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách thành phố Qui Nhơn 20km. Trên đỉnh quả đồi giữa 2 nhánh của sông Côn là Tân An và cầu Gành, bên quốc lộ 1A, cách Qui Nhơn khoảng 20km. Tháp Bánh Ít được xây dựng vào cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XII. Đây là một quần thể gồm 4 tháp, tháp chính cao 22 m, trông xa giống như chiếc bánh ít. Tháp có cửa chính quay về hướng Đông. Vòm cửa được tạo dáng mũi lao hai lớp thu nhỏ về phía trên với các hoa văn hình xoắn nối kết nhau.
Cửa chính còn được trang trí bằng một hình phù điêu tạc hình Ganesa, hình Haruman. Ba cửa giả quay các hướng còn lại đều mô phỏng cấu trúc và trang trí của cửa chính. Tháp được xếp hạng di tích Kiến trúc nghệ thuật năm 1982.

Tháp Phú Lốc - Tháp Vàng

Thuộc xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, cách thành phố Qui Nhơn 35km về phía Bắc. Được xếp hạng di tích Kiến trúc nghệ thuật năm 1995.

Tháp Thủ Thiện

Thuộc xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn, cách thành phố Qui Nhơn 35km về hướng Tây Bắc. Được xây cất trên một vùng đất tương đối thấp, ở bờ Nam Sông Côn, tháp có quy mô nhỏ, kiểu dáng trang nhã. Được xếp hạng di tích Kiến trúc Nghệ thuật năm 1995.

Tháp Cánh Tiên - Tháp Đồng

Được xây dựng bên thành Đồ Bàn, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn vào khoảng thế kỷ 12. Điểm đặc biệt của tháp Cánh Tiên là phần phía trong các cột ốp tường được ốp kín bằng các phiến đá sa thạch màu tím có chạm khắc hoa văn dây xoắn. Ngôi tháp được tạo dáng thanh thoát nhưng trang nghiêm và đẹp với phong cách xây dựng bài trí văn hóa Chăm. Tháp có 4 tầng thu nhỏ về phía trên, tầng nào cũng có 4 tháp góc trang trí, mỗi góc lại có những tầng nhỏ, tạo dáng lá lật nhỏ dần về phía trên tạo cảm giác như cánh chim đang bay, từ vai tháp trở lên bốn phía đều giống như cánh tiên đang bay lên nên được gọi là tháp Cánh Tiên. Tháp được xếp hạng di tích Kiến trúc nghệ thuật năm 1982.





Tháp Đôi - Tháp Hưng Thạnh

Thuộc địa phận phường Đống Đa, tp. Qui Nhơn, cách trung tâm thành phố 3km. Tháp được xây dựng vào cuối thế kỷ 12, đầu thế kỷ 13. Tháp được trùng tu năm 1996. Tháp Đôi còn được gọi là tháp Hưng Thạnh, gồm 2 tháp, một tháp cao 18 m và một tháp cao 20m. Tháp đôi được gọi là "độc nhất vô nhị" của nghệ thuật kiến trúc Chămpa. Cả hai tháp không phải là tháp vuông nhiều tầng thường thấy của tháp Chăm mà là một cấu trúc gồm 2 phần chính: Khối thân vuông và phần đỉnh hình tháp mặt cong, các góc tháp hiện lên những tượng chim thần Garuda hai tay đưa cao như muốn nâng đỡ tháp. Tháp Đôi ảnh hưởng nghệ thuật kiến trúc của Ấn Độ giáo. Tháp được xếp hạng di tích Kiến trúc nghệ thuật năm 1980.

Lễ hội

Lễ hội Đống Đa

Lễ hội Đống Đa hằng năm được tổ chức vào ngày mồng 5 tháng Giêng âm lịch tại xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn để tưởng nhớ các thủ lĩnh phong trào Tây Sơn, đặc biệt là người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ và chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa (1789), đánh thắng 29 vạn quân Thanh. Ngoài nghi lễ truyền thống còn có nhiều họat động văn hóa dân gian các dân tộc Kinh, Bana, Chăm... Nhiều cuộc biểu diễn võ thuật như: đấu võ, đánh côn, đi quyền... Tiết mục độc đáo của lễ hội là cuộc thi đánh trống bộ, mỗi bộ 12 chiếc trống da, còn gọi là trống trận Tây Sơn và diễn cảnh đánh trận giả làm sống lại khí thế hào hùng của nghĩa quân Tây Sơn năm xưa trên đất Bình Định.

Lễ hội Đổ giàn

Tổ chức hằng năm vào ngày 15 tháng 7 âm lịch tại chùa Bà, làng An Thái, huyện An Nhơn. Đầu tiên gọi là hội xô cỗ (xô giàn), về sau gọi là đổ giàn. Người ta thiết lập một đàn cúng cao, trên đó đặt hương, hoa, trà, quả, cỗ gạo, bánh và đặc biệt là cỗ heo quay. Sau những nghi thức cúng lễ cổ truyền, vị chủ tế tuyên bố xô giàn, cho phép cuộc tranh tài bắt đầu. Người tranh tài là các võ đuờng quanh vùng, các lò võ cử người tham gia cuộc thi xông vào giành heo quay và mang con heo chạy về vị trí đã định.





Hội làng Rèn Tây Phương Danh

Làng nghề thuộc thị trấn Đập Đá, huyện An Nhơn, là làng có truyền thống làm rèn cách đây 300 năm. Cụ tổ là Đào Giã Tượng mang nghề từ phương Bắc vào truyền cho dân địa phương. Hằng năm, để nhớ ơn người khai sinh làng Rèn, người Tây Phương Danh tổ chức Lễ hội làng rèn vào ngày 12 tháng 2 âm lịch. Lễ hội quy tụ những thợ rèn ở địa phương và các nơi khác đến.

Hội Xuân chợ Gò

Hội Xuân chợ Gò được tổ chức vào ngày mồng một Tết nguyên đán tại chợ Gò, Trường Úc, thị trấn Tuy Phước, huyện Tuy Phước. Đây chủ yếu là họp chợ, mua bán đầu năm lấy may mắn cho cả năm. Nhưng việc mua bán chỉ tượng trưng, đi hội vui là chính. Trai gái đi hội chợ Gò chen chân, liếc mắt để tìm bạn tình. Tuổi thiếu niên rủng rẻng tiền lì xì thì đi mua đồ chơi, đồ ăn thức uống. Người có tuổi tham dự các môn cờ tướng, đá gà ... Lễ hội chợ Gò cách đây khỏang trên dưới 300 năm. Tương truyền hai vị tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng chỉ huy đóng quân tại khu vực này, đã cho mở hội chợ Gò để quân sĩ và nhân dân vui chơi cho vơi đi nỗi nhớ gia đình ngày tết.
Lễ hội chợ Gò ngay nay được nâng lên bước mới: Có phần lễ trang trọng và phần vui hội. Các trò chơi dân gian được tổ chức: múa lân, chọi gà, cờ tướng, đá cầu, đập niêu, kéo co .. Chợ mang nét đẹp vùng Tuy Phước, họp chợ một ngày vui suốt năm.

Lễ hội cầu ngư

Trích từ Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

QUÊ HƯƠNG BÌNH ĐỊNH - TIẾP THEO..


Hải đảo

Ven bờ biển tỉnh Bình Định gồm có 32 đảo lớn nhỏ được chia thành 10 cụm đảo hoặc đảo một mình.

* Tại khu vực biển thuộc thành phố Quy Nhơn gồm cụm đảo Cù Lao Xanh là cụm đảo lớn gồm 3 đảo nhỏ; cụm Đảo Hòn Đất gồm các đảo nhỏ như Hòn Ngang, Hòn Đất, Hòn Rớ; cụm Đảo Hòn Khô còn gọi là cù lao Hòn Khô gồm 2 đảo nhỏ; cụm Đảo Nghiêm Kinh Chiểu gồm 10 đảo nhỏ (lớn nhất là Hòn Sẹo); cụm Đảo Hòn Cân gồm 5 đảo nhỏ; Đảo đơn Hòn Ông Cơ.
* Tại khu vực biển thuộc huyện Phù Mỹ gồm cụm Đảo Hòn Trâu hay Hòn Trâu Nằm gồm 4 đảo nhỏ; Đảo Hòn Khô còn gọi là Hòn Rùa. Ven biển xã Mỹ Thọ có 3 đảo nhỏ gồm: Đảo Hòn Đụn còn gọi là Hòn Nước hay Đảo Đồn, Đảo Hòn Tranh còn gọi là Đảo Quy, Đảo Hòn Nhàn.

Trong các đảo nói trên thì chỉ đảo Cù Lao Xanh là có dân cư sinh sống, các đảo còn lại là những đảo nhỏ một số đảo còn không có thực vật sinh sống chỉ toàn đá và cát. Dọc bờ biển của tỉnh, ngoài các đèn hiệu hướng dẫn tàu thuyền ra vào cảng Quy Nhơn, thì Bình Định còn có 2 ngọn hải đăng: một ngọn được xây dựng trên mạng bắc của núi Gò Dưa thuộc thôn Tân Phụng xã Mỹ Thọ huyện Phù Mỹ, ngọn này có tên gọi là Hải Đăng Vũng Mới hay Hải Đăng Hòn Nước; ngọn thứ hai được xây dựng trên đảo Cù Lao Xanh thuộc xã Nhơn Châu thành phố Quy Nhơn.

Sông ngòi

Các sông trong tỉnh đều bắt nguồn từ những vùng núi cao của sườn phía đông dãy Trường Sơn. Các sông ngòi không lớn, độ dốc cao, ngắn, hàm lượng phù sa thấp, tổng trữ lượng nước 5,2 tỷ m³, tiềm năng thuỷ điện 182,4 triệu KW. Ở thượng lưu có nhiều dãy núi bám sát bờ sông nên độ dốc rất lớn, lũ lên xuống rất nhanh, thời gian truyền lũ ngắn. Ở đoạn đồng bằng lòng sông rộng và nông có nhiều luồng lạch, mùa kiệt nguồn nước rất nghèo nàn; nhưng khi lũ lớn nước tràn ngập mênh mông vùng hạ lưu gây ngập úng dài ngày vì các cửa sông nhỏ và các công trình che chắn nên thoát lũ kém. Trong tỉnh có bốn con sông lớn là Côn, Lại Giang, La Tinh và Hà Thanh cùng các sông nhỏ như Châu Trúc hay Tam Quan. Ngoài các sông đáng kể nói trên còn lại là hệ thống các suối nhỏ chằng chịt thường chỉ có nước chảy về mùa lũ và mạng lưới các sông suối ở miền núi tạo điều kiện cho phát triển thuỷ lợi và thuỷ điện. Độ che phủ của rừng đến nay chỉ còn khoảng trên 40% nên hàng năm các sông này gây lũ lụt, sa bồi, thuỷ phá nghiêm trọng. Ngược lại, mùa khô nước các sông cạn kiệt, thiếu nước tưới.

Hồ đầm

Toàn tỉnh Bình Định có nhiều hồ nhân tạo được xây dựng để phục vụ mục đích tưới tiêu trong mùa khô. Trong đó có thể kể tên một số hồ lớn tại các huyện trong tỉnh như: hồ Hưng Long (An Lão); hồ Vạn Hội, Mỹ Đức và Thạch Khê (Hoài Ân); hồ Mỹ Bình (Hoài Nhơn); hồ Hội Sơn và Mỹ Thuận (Phù Cát); hồ Diêm Tiêu, Hóc Nhạn và Phú Hà (Phù Mỹ); hồ Định Bình, Thuận Ninh (Tây Sơn); hồ Núi Một (Vân Canh-An Nhơn); hồ Vĩnh Sơn, hồ Định Bình (Vĩnh Thạnh). Ngoài ra Bình Định còn có một đầm nước ngọt khá rộng là đầm Trà Ổ (Phù Mỹ) và hai đầm nước lợ là Đề Gi (Phù Mỹ-Phù Cát)và Thị Nại (Tuy Phước-Quy Nhơn). Hệ thống hồ đầm này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản. Đặc biệt đầm Thị Nại là đầm lớn rất thuận lợi cho việc phát triển cảng biển tầm cở quốc gia và góp phần phát triển khu kinh tế Nhơn Hội, đầm còn được biết đến với cây cầu vượt biển dài nhất Việt Nam hiện nay.

Khí hậu

Khí hậu Bình Định có tính chất nhiệt đới ẩm, gió mùa. Do sự phức tạp của địa hình nên gió mùa khi vào đất liền đã thay đổi hướng và cường độ khá nhiều.

* Nhiệt độ không khí trung bình năm: ở khu vực miền núi biến đổi 20,1-26,1°C, cao nhất là 31,7°C và thấp nhất là 16,5°C. Tại vùng duyên hải, nhiệt độ không khí trung bình năm là 27,0°C, cao nhất 39,9°C và thấp nhất 15,8°C.
* Độ ẩm tuyệt đối trung bình tháng trong năm: tại khu vực miền núi là 22,5-27,9% và độ ẩm tương đối 79-92%; tại vùng duyên hải độ ẩm tuyệt đối trung bình là 27,9% và độ ẩm tương đối trung bình là 79%.
* Chế độ mưa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12. Riêng đối với khu vực miền núi có thêm một mùa mưa phụ tháng 5-8 do ảnh hưởng của mùa mưa Tây Nguyên. Mùa khô kéo dài tháng 1-8. Đối với các huyện miền núi tổng lượng mưa trung bình năm 2.000-2.400 mm. Đối với vùng duyên hải tổng lượng mưa trung bình năm là 1.751 mm. Tổng lượng mưa trung bình có xu thế giảm dần từ miền núi xuống duyên hải và có xu thế giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
* Về bão: Bình Định nằm ở miền Trung Trung bộ Việt Nam, đây là miền thường có bão đổ bộ vào đất liền. Hàng năm trong đoạn bờ biển từ Quảng Nam - Đà Nẵng đến Khánh Hòa trung bình có 1,04 cơn bão đổ bộ vào. Tần suất xuất hiện bão lớn nhất tháng 9-11.

Lịch sử

* Bình Định xưa là đất thuộc Việt Thường Thị và nền văn hóa Sa Huỳnh, sau đó người Chăm đã tới chiếm lĩnh vùng đất này. Đến đời nhà Tần xứ này là huyện Lâm Ấp thuộc Tượng Quận, đời nhà Hán là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam, năm Vĩnh Hoà 2 (137) người trong quận làm chức Công Tào tên là Khu Liên đã giết viên huyện lệnh chiếm đất và tự phong là Lâm Ấp vương.
* Đời nhà Tùy (605) dẹp Lâm Ấp đặt tên là Xung Châu, sau đó lại lấy tên cũ là Lâm Ấp.
* Đời nhà Đường, năm 627 đổi tên là Lâm Châu.
* Năm 803, nhà Đường bỏ đất này và nước Chiêm Thành của người Chăm ra đời, đất này được đổi là Đồ Bàn, Thị Nại.
* Đời nhà Lê năm Hồng Đức 2 (1471) vua Lê Thánh Tông đánh phá Chiêm Thành tới núi Thạch Bi chiếm đất này và chia thành 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Ly, Tuy Viễn của phủ Hoài Nhơn thuộc thừa tuyên Quảng Nam.
* Năm 1602 chúa Nguyễn Hoàng cho đổi phủ Hoài Nhơn thành Phủ Quy Nhơn thuộc dinh Quảng Nam.
* Năm 1651, chúa Nguyễn Phúc Tần, đã đổi tên phủ Quy Nhơn thành phủ Quy Ninh.
* Năm 1742, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lấy lại tên cũ là Quy Nhơn.
* Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát đặt các đạo làm dinh, nhưng cấp phủ vẫn giữ nguyên. Phủ Quy Nhơn vẫn thuộc về dinh Quảng Nam, đặt các chức tuần phủ và khám lý để cai trị. Phủ lỵ dời ra phía Bắc thành Đồ Bàn, đóng tại thôn Châu Thành (nay là xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn).
* Năm 1725, ở phủ Quy Nhơn đặt các chức quan trông coi: Chánh hộ, Khám lý, Đề đốc, Đề lãnh, Ký lục, Cai phủ, Thư ký, mỗi chức đặt một người; mỗi huyện đặt cai tri, thư ký, mỗi chức một người và 2 viên lục lại; mỗi tổng có cai tổng.
* Từ 1773 đến 1797, nhà Tây Sơn chiếm cứ đất này, sau khi lấy lại đất này Nguyễn Ánh đổi tên đất này là dinh Bình Định, sai Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn thủ và đặt quan cai trị gọi là Lưu Thủ, Cai Bộ, Ký Lục.
* Năm 1808 đổi dinh Bình Định thành Trấn Bình Định.
* Năm 1825 đặt tri phủ Quy Nhơn, năm 1831 lại đổi thành phủ Hoài Nhơn.
* Năm 1832 tách huyện Tuy viễn thành hai huyện Tuy Viễn và Tuy Phước, tách huyện Phù Ly thành hai huyện Phù Mỹ và Phù Cát đồng thời Bình Định và Phú Yên thành liên tỉnh Bình Phú, sau đó bỏ liên tỉnh này.
* Năm 1888 đặt huyện Bình Khê. Vào năm 1885 Bình Định là một tỉnh lớn ở Trung Kỳ, nhiều vùng đất của Gia Lai-Kon Tum còn thuộc về Bình Định.
* Năm 1890, thực dân Pháp sát nhập thêm Phú Yên vào tỉnh Bình Định thành tỉnh Bình Phú, tỉnh lỵ là Quy Nhơn. Nhưng đến năm 1899, Phú Yên tách ra khỏi Bình Phú.
* Ngày 4 tháng 7 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh tự trị Pleikou Derr, tỉnh lỵ đặt tại làng Pleikan Derr của dân tộc Gia Lai. Địa bàn tỉnh Pleikou Derr bao gồm các vùng cư trú của đồng bào thiểu số Xơ đăng, Bana, Gialai tách từ tỉnh Bình Định ra.
* Ngày 25 tháng 4 năm 1907 xoá bỏ tỉnh Pleikou Derr. Toàn bộ đất đai của tỉnh này chia làm hai phần: một là Đại lý Kontum cho sát nhập trở lại tỉnh Bình Định và đặt dưới sự cai trị của Công sứ Bình Định; một gọi là Đại lý Cheo Reo, cho sát nhập vào tỉnh Phú Yên và đặt dưới sự cai trị của Công sứ Phú Yên.
* Năm 1913, thực dân Pháp lại sát nhập Phú Yên vào Bình Định thành tỉnh Bình Phú và thành lập tỉnh Kontum làm tỉnh riêng; địa bàn tỉnh Kontum bao gồm Đại lý Kontum tách từ tỉnh Bình Định, Đại lý Cheo Reo tách từ tỉnh Phú Yên và Đại lý Đắc Lắc. Ngày 28 tháng 3 năm 1917 cắt tổng Tân Phong và tổng An Khê thuộc cao nguyên An Khê, tỉnh Bình Định, sát nhập vào tỉnh Kontum.
* Năm 1921, thực dân Pháp cắt tỉnh Phú Yên ra khỏi tỉnh Bình Định và kéo dài cho đến năm 1945. Thời Việt Nam Cộng hòa đổi các huyện thành quận, tỉnh Bình Định có 11 quận, 1 thị xã, trong đó có 4 quận miền núi. Tháng 2 năm 1976 Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ra nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam theo đó hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định hợp nhất thành tỉnh Nghĩa Bình.
* Năm 1989 Bình Định tách ra từ tỉnh Nghĩa Bình để tái lập lại tỉnh và kéo dài như vậy cho đến nay.

Hành chính

Bình Định bao gồm 1 thành phố trực thuộc và 10 huyện:

* Thành phố Qui Nhơn
* Huyện An Lão
* Huyện An Nhơn
* Huyện Hoài Ân
* Huyện Hoài Nhơn
* Huyện Phù Cát
* Huyện Phù Mỹ
* Huyện Tuy Phước
* Huyện Tây Sơn
* Huyện Vân Canh
* Huyện Vĩnh Thạnh

Dân số, dân tộc

Theo số liệu niên giám thống kê năm 2005, toàn tỉnh có 1.562.400 người, trong đó nam là (761.000 người) chiếm 48,7%, nữ là (801.400 người) chiếm: 51,3%. Dân số ở thành thị là (393.000 người) chiếm 25,2%, nông thôn là (1.169.400 người) chiếm 74,8%, mật độ dân số là 259,4 người/km2 và dân số trong độ tuổi lao động chiếm khoảng (793.687 người) chiếm: 50,8% dân số toàn tỉnh. Ngoài dân tộc Kinh, còn có các dân tộc khác nhưng chủ yếu là Chăm, Ba Na và Hrê, bao gồm khoảng 2,5 vạn dân.

Văn hóa

Bình Định là mảnh đất có bề dày lịch sử với nền văn hoá Sa Huỳnh, từng là cố đô của vương quốc Chămpa mà di sản còn lưu giữ là thành Đồ Bàn và các tháp Chàm với nghệ thuật kiến trúc độc đáo. Đây cũng là nơi xuất phát phong trào nông dân khởi nghĩa vào thế kỷ 18 với tên tuổi của anh hùng Nguyễn Huệ; là quê hương của các danh nhân như Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân,Đào Tấn, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Yến Lan... Bình Định còn nổi tiếng bởi truyền thống thượng võ và có nền văn hoá đa dạng phong phú với các loại hình nghệ thuật như bài chòi, hát bội, nhạc võ Tây Sơn, hò bá trạo của cư dân vùng biển... cùng với các lễ hội như: lễ hội Đống Đa, lễ hội cầu ngư, lễ hội của các dân tộc miền núi...

Thành phố Qui Nhơn có trường Đại học Qui Nhơn, Trường Cao Đẳng sư phạm Bình Định, Trường Đại học Quang Trung (tư thục), Trường Cao Đẳng Kỹ thuật, hàng năm đào tạo hàng ngàn sinh viên khoa học kỹ thuật cho tỉnh và khu vực miền trung Tây Nguyên .

Tuồng Bình Định

Bình Định là nơi có nghệ thuật tuồng rất phát triển gắn liền với tên tuổi của Đào Duy Từ (Hiện Nay đền thờ danh nhân Đào Duy Từ ở tại xã Hoài Thanh Tây huyện Hoài Nhơn, cách quốc lộ 1A 2 km), Đào Tấn. Các đoàn hát tuồng trong tỉnh được hình thành ở khắp các huyện. Với sự giao lưu của nghệ thuật tuồng và võ Bình Định đã đưa tuồng Bình Định lên một tầm cao mới khác lạ hơn so với các đoàn tuồng của Huế hay Nguyễn Hữu Dỉnh của Quảng Nam. Tuồng còn gọi là "hát bội" hay hát bộ sở dĩ nó có tên gọi như thế là vì ngoài việc hát thì yếu tố quan trọng góp phần tạo nên một vở tuồng hay và đặc sắc là hành động điệu bộ của các đào kép. Việc kết hợp võ thuật vào các màng nhào lộn, đánh trận ở mỗi đoàn có khác nhau tùy theo trình độ của đào kép. Trước kia khi hát bội còn thịnh hành thì có nhiều đoàn hát nhưng những năm gần đây dưới sự biến động của kinh tế thị trường thì nhiều đoàn dần giải tán. Lúc còn thịnh hành các đoàn hát bội thường được các làng, những gia chủ giàu có hay các lăng, đình ven biển mời về biểu diễn. Sau những đoạn diễn hay người cầm chầu ném tiền thưởng lên sân khấu. Vì thế mới có câu "Ở đời có bốn cái ngu làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu" thường thì sau đêm hát cuối cùng các đoàn hay hát màn "tôn vương" để chúc tụng gia chủ, làng xóm gặp nhiều may mắn và cuối màn "tôn vương" thì thường hát câu: "rày mừng hải yến Hà Thanh-nhân dân an lạc thái bình âu ca" hay "ngũ sắc tường vân khai bắc khuyết-nhất bôi thọ tửu chúc nam sang".

Đặc sản

Ngoài các đặc sản về lâm, thổ, thuỷ, hải sản của duyên hải miền Trung nói chung, Bình Định còn nổi tiếng có: rượu Bàu Đá (An Nhơn), cá chua nước lợ (Phù Mỹ, Đề Gi), bánh tráng nước dừa (Tam Quan. Ngày nay ở huyện Hoài Nhơn còn có thêm đặc sản Cá Ngừ Đại Dương dân địa phương gọi là cá "Bò Gù" ) ...

Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2011

QUÊ HƯƠNG BÌNH ĐỊNH


Quê hương Bình Định


Diện tích: 6 026 km2
Dân số (2002): 1 513 100 người
Tỉnh lỵ: Tp Quy Nhơn
Các huyện: An Lão, Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phú Mỹ, Phù Cát, Vĩnh Thạnh, Tây Sơn, Vân Canh, An Nhơn, Tuy Phước.
Dân tộc: Việt (Kinh), Chăm, Bana...


Là một tỉnh duyên hải miền Trung, phía bắc giáp Quảng Ngãi, tây giáp Gia Lai, nam giáp Phú Yên, đông giáp biển Đông. Địa hình Bình Định đa dạng có vùng núi, vùng giáp núi, vùng đồng bằng và vùng bãi bồi ven biển. Bờ biển Bình Định dài hơn 100 km với nhiều đảo lớn, nhỏ ngoài khơi. Tỉnh có suối nước khoáng ở huyện Phù Cát.
Bình Định có đường giao thông thuận tiện, quốc lộ 1 chạy qua tỉnh, quốc lộ 19 nối Qui Nhơn với các tỉnh Tây Nguyên: Gia Lai và Kon Tum; tàu Thống Nhất dừng lại tại ga Mường Mán cách Qui Nhơn 11 km; sân bay Phù Cát cách Qui Nhơn 36 km về phía bắc; cảng biển Qui Nhơn là một cảng lớn của khu vực Nam Trung bộ.


Bình Định có nhiều đặc sản nổi tiếng gần xa như: tơ lụa, yến sào, tôm, cá, gỗ quí, trầm hương, dầu thực vật, gạo, đá ốp lát và hàng thủ công mỹ nghệ.


Di tích - Danh thắng: Bãi tắm Hoàng Hậu; Bán đảo Phương Mai - Thị Nại; Ghềnh Ráng; Suối nước nóng Hội Vân; Thắng cảnh Hầm Hô; Chùa Thập Tháp; Chùa Long Khánh; Chùa Sơn Long (chùa Hang); Chùa Thạch Cốc; Tịnh xá Nguyên Triều; Tháp Chàm Dương Long; Thành Hoàng Đế (Chà Bàn); Thành Nhị Nại .


Lễ hội: Lễ cúng Cá Ông; Lễ hội Tây Sơn; Lễ hội Đổ Giàn; Hội làng Thị Tứ; Hội xuân chợ Gò.
Bình Định là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố cảng Quy Nhơn nằm cách thủ đô Hà Nội 1.065 km về phía bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 649 km về phía nam.

Vị trí địa lý

Bình Định là tỉnh duyên hải miền Trung của Việt Nam. Lãnh thổ của tỉnh trải dài 110 km theo hướng Bắc - Nam, có chiều ngang với độ hẹp trung bình là 55 km (chỗ hẹp nhất 50 km, chỗ rộng nhất 60 km). Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi với đường ranh giới chung 63 km (điểm cực Bắc có tọa độ: 14°42'10 Bắc, 108°55'4 Đông). Phía Nam giáp tỉnh Phú Yên với đường ranh giới chung 59 km (điểm cực Nam có tọa độ: 13°30'10 Bắc, 108o54'00 Đông). Phía Tây giáp tỉnh Gia Lai có đường ranh giới chung 130 km (điểm cực Tây có tọa độ: 14°27' Bắc, 108°27' Đông). Phía Đông giáp biển Đông với bờ biển dài 134 km, điểm cực Đông là xã Nhơn Châu (Cù Lao Xanh) thuộc thành phố Qui Nhơn (có tọa độ: 13°36'33 Bắc, 109°21' Đông). Bình Định được xem là một trong những cửa ngõ ra biển của các tỉnh Tây Nguyên và vùng nam Lào.



Địa hình

Địa hình của tỉnh tương đối phức tạp, thấp dần từ tây sang đông. Phía tây của tỉnh là vùng núi rìa phía đông của dãy Trường Sơn Nam, kế tiếp là vùng trung du và tiếp theo là vùng ven biển. Các dạng địa hình phổ biến là các dãy núi cao, đồi thấp xen lẫn thung lũng hẹp độ cao trên dưới 100 mét, hướng vuông góc với dãy Trường Sơn, các đồng bằng lòng chảo, các đồng bằng duyên hải bị chia nhỏ do các nhánh núi đâm ra biển. Ngoài cùng là cồn vát ven biển có độ dốc không đối xứng giữa 2 hướng sườn đông và tây. Các dạng địa hình chủ yếu của tỉnh là:

* Vùng núi: Nằm về phía tây bắc và phía tây của tỉnh. Đại bộ phận sườn dốc hơn 20°. Có diện tích khoảng 249.866 ha, phân bố ở các huyện An Lão (63.367 ha), Vĩnh Thạnh (78.249 ha), Vân Canh (75.932 ha), Tây Sơn và Hoài Ân (31.000 ha). Địa hình khu vực này phân cắt mạnh, sông suối có độ dốc lớn, là nơi phát nguồn của các sông trong tỉnh. Chiếm 70% diện tích toàn tỉnh thường có độ cao trung bình 500-1.000 m, trong đó có 11 đỉnh cao trên 1.000 m, đỉnh cao nhất là 1.202 m ở xã An Toàn (huyện An Lão). Còn lại có 13 đỉnh cao 700-1000m. Các dãy núi chạy theo hướng Bắc - Nam, có sườn dốc đứng. Nhiều khu vực núi ăn ra sát biển tạo thành các mỏm núi đá dọc theo bờ, vách núi dốc đứng và dưới chân là các dải cát hẹp. Đặc tính này đã làm cho địa hình ven biển trở thành một hệ thống các dãy núi thấp xen lẫn với các cồn cát và đầm phá.

* Vùng đồi: tiếp giáp giữa miền núi phía tây và đồng bằng phía đông, có diện tích khoảng 159.276 ha (chiếm khoảng 10% diện tích), có độ cao dưới 100 m, độ dốc tương đối lớn từ 10° đến 15°. Phân bố ở các huyện Hoài Nhơn (15.089 ha), An Lão (5.058 ha) và Vân Canh (7.924 ha).

* Vùng đồng bằng: Tỉnh Bình Định không có dạng đồng bằng châu thổ mà phần lớn là các đồng bằng nhỏ được tạo thành do các yếu tố địa hình và khí hậu, các đồng bằng này thường nằm trên lưu vực của các con sông hoặc ven biển và được ngăn cách với biển bởi các đầm phá, các đồi cát hay các dãy núi. Độ cao trung bình của dạng địa hình đồng bằng lòng chảo này khoảng 25-50 m và chiếm diện tích khoảng 1.000 km². Đồng bằng lớn nhất của tỉnh là đồng bằng thuộc hạ lưu sông Kôn, còn lại là các đồng bằng nhỏ thường phân bố dọc theo các nhánh sông hay dọc theo các chân núi và ven biển.




* Vùng ven biển: Bao gồm các cồn cát, đụn cát tạo thành một dãy hẹp chạy dọc ven biển với chiều rộng trung bình khoảng 2 km, hình dạng và quy mô biến đổi theo thời gian. Trong tỉnh có các dãi cát lớn là: dãi cát từ Hà Ra đến Tân Phụng, dãi cát từ Tân Phụng đến vĩnh Lợi, dãi cát từ Đề Gi đến Tân Thắng, dãi cát từ Trung Lương đến Lý Hưng. Ven biển còn có nhiều đầm như đầm Trà Ổ, đầm Nước Ngọt, đầm Mỹ Khánh, đầm Thị Nại; các vịnh như vịnh Làng Mai, vịnh Quy Nhơn, vịnh Vũng Mới...; các cửa biển như Cửa Tam Quan, cửa An Dũ, cửa Hà Ra, cửa Đề Gi và cửa Quy Nhơn. Các cửa trên là cửa trao đổi nước giữa sông và biển. Hiện tại ngoại trừ cửa Quy Nhơn và cửa Tam Quan khá ổn định, còn các cửa An Dũ, Hà Ra, Đề Gi luôn có sự bồi lấp và biến động.CÒN NỮA...Sưu tầm


 

MY BLOG

free counters